Bài viết được biên soạn bởi Nguyễn Việt Kiên
Cung Mệnh Trong Tử Vi Là Gì?
Cung Mệnh tại 12 cung trong Mệnh bàn chiếm vị trí rất trọng yếu, cung Mệnh là hạch tâm của Mệnh bàn, cát hung họa phúc của một cá nhân toàn bộ lấy cung Mệnh làm tiêu chuẩn cơ bản đến đánh giá.
Cung Mệnh hiện thị ra vận mệnh Tiên thiên cùng vận mệnh Hậu thiên của con người, bao quát tính cách, phẩm đức, dung mạo, tài hoa, cơ ngộ, tư tưởng, tinh thần, yêu thích, công việc thích hợp, hoàn cảnh, công việc cả đời và tình huống phát triển sự nghiệp của con người; các loại quỹ đạo thuận nghịch của cuộc đời, đều tại trong cung Mệnh hiển hiện ra đến.
Mệnh cung là cung vị trung tâm cai quản nơi cát hung họa phúc của cá nhân cả đời.
Luận Giải Cung Mệnh Trong Tử Vi
Cung Thân và cung Mệnh một dạng, cũng mang theo tác dụng trọng yếu. Cung Mệnh chủ yếu biểu hiện ra tình trạng của Tiên thiên, cung Thân thì chủ yếu biểu hiện tình trạng của Hậu thiên.
Cung Thân rơi vào cung nào, cung đó tựu là cường cung. Như cung Thân rơi vào cung Quan Lộc, quan vận của người này sẽ tốt, đương nhiên phải căn cứ tình huống tổ hợp của các sao mà định.
Nếu như cung Thân tại cung Quan Lộc còn nằm ở vị trí cung Mão gồm có sao Thiên Cơ, sao Cự Môn rơi vào, có thể thành là quan viên cấp bộ. Sao Tham Lang nhập cung Quan Lộc thì e rằng là tham quan.
Tam phương Tứ chính của cung Mệnh quan hệ trọng đại. Nếu như Tam phương Tứ chính của cung Mệnh tổ hợp Cát tinh khá nhiều, có Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa hoặc sao Lộc Tồn rơi vào; Khoa, Quyền, Lộc đầy đủ, nhất định là trọng thần phụ tá của vua.
Hóa Lộc kị nhất Hung tinh xung phá, như cùng sao Kình Dương, sao Đà La, Hỏa tinh, Linh tinh, sao Địa Không, sao Địa Kiếp đồng cung hoặc giáp hội, thì cách cục hạ thấp, chỉ có hư danh, chẳng hề phú quý, hoặc bởi vì phú quý mà dẫn đến hung họa.
Nếu như cung đối của cung Mệnh là cung Thiên di có Cát tinh rơi vào, mưu cầu xuất ngoại đại cát, tại bên ngoài nhất định có bạn bè giúp đỡ, có quý nhân đề bạt, mà còn có thể áo gấm về làng.
Nếu như cung Mệnh vô chính diệu, xem cung đối, có Cát tinh thì giảm một nửa may mắn, Hung tinh thì thêm hung.
Người cung Mệnh có sao Thiên Diêu háo sắc, nhu cầu tính dục cao, sinh hoạt tính nhiều lần.
Người mà cung Mệnh có Thái Âm Hóa Kị hoặc Tham Lang Hóa Kị, hôn nhân có trắc trở, tất hai lần chồng hoặc trầm mê trong tửu sắc, hoặc là do vợ lẽ sinh, hoặc nhà có mẹ kế. Nữ nhân dễ lưu lạc phong trần.
Sao Đà La, Hỏa tinh, Linh tinh tại cung Mệnh, chủ thương tật xa quê, một đời hình khắc lao ngục.
Cung Mệnh rơi vào cung Tý Ngọ, chủ người có kiến giải, có lý tưởng, đối với triết lý hoặc tôn giáo rất có hứng thú. Tính cách của nó ngoài cứng mà trong mềm, như gặp Sát tinh, thì tri âm khó kiếm.
Cung Mệnh rơi vào cung Sửu Mùi, nhập Miếu; người sinh năm Giáp Canh Đinh Kỷ , là có lợi nhất. Như cùng Hỏa tinh, Linh tinh đồng cung, thì cùng Lục thân tương khắc, cuộc sống cảm thấy cực kỳ cô đơn.
Như cùng sao Văn Xương, sao Văn Khúc đồng cung; thì là người có lòng hướng về tôn giáo khá mạnh. Như cùng sao Dương nhẫn, sao Đà la đồng cung, thì một đời chìm nổi, biến hóa đa đoan.
Như cùng sao Địa không, sao Địa kiếp đồng cung hoặc nằm ở cung Thiên di, đối với bản thân không hề có lực ước thúc, hư danh hư lợi, hội Thiên Mã chủ phiêu bạt, cưỡi phi cơ xuất ngoại, dễ gặp nạn trên không, hoặc chết ở nơi xa.
Như cùng sao Lộc Tồn, sao Thiên Khôi, sao Tả Phụ, sao Hữu Bật đồng cung, thì một đời khá là an định.
Cung Mệnh rơi vào cung Dần Thân, nhập Miếu, cùng sao Thiên Phủ tương đồng; người sinh năm Giáp Kỷ Đinh Canh tài quan đều có, cát lợi.
Sao Thiên Phủ là Tài khố, chủ người hiền lành đôn hậu cẩn thận, thông minh có tài trí, làm việc ổn trọng rộng lượng, có năng lực lãnh đạo, nhưng khá là bảo thủ.
Người sinh năm Giáp, sao Lộc Tồn tại Dần, như phùng sao Thiên Mã đồng cung ở Dần, thì ứng là mệnh phú quý song toàn, nhưng cần dựa vào phúc ấm của tổ đức.
Nam mệnh lấy tham gia chức vụ có tính công ích là phù hợp, như: tham chính, công vụ viên, viên chức nhà nước, đều có thể; nữ mệnh không phù hợp, chỉ phù hợp làm việc gia đình.